Chuyện nghề của họa sĩ Phạm Lực

 Phạm Lực là họa sĩ quân đội trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, từng tham gia giảng dạy nhiều khóa đào tạo mỹ thuật cho các họa sĩ mặc áo lính do Tổng cục Chính trị tổ chức.

Hơn 50 năm miệt mài theo nghề, họa sĩ đã sáng tác số lượng tranh khổng lồ, hơn 2 vạn bức. Tranh của ông tham gia hàng chục triển lãm và được trao nhiều giải thưởng cao quý trong nước và quốc tế. Người hâm mộ, yêu thích tranh của ông đã sưu tầm và tập hợp thành “Câu lạc bộ những người sưu tầm tranh Phạm Lực” với trên 100 hội viên; trong đó có nhiều hội viên là người nước ngoài hoặc cán bộ sứ quán các nước Anh, Nga, Pháp, Bỉ, Nam Phi, Canada, Hoa Kỳ…

Kẻ yêu nghệ thuật đáng ghét

Những năm tháng phục vụ trong quân đội, mỗi lần đi công tác, Phạm Lực luôn đem theo “vật bất ly thân” là chiếc túi đồ nghề đựng hộp màu, giấy, bút vẽ. Lần nào đi công tác bằng xe nhà binh thì túi đồ nghề được nguyên vẹn, còn những lần nhảy tàu hỏa đi công tác thường bị kẻ gian rạch túi. Tuy không bị mất của vì kẻ cắp chẳng lấy làm gì những tuýp sơn dầu lem luốc, nhưng họa sĩ nhiều phen khổ sở vì túi rách, hộp màu vung vãi.

Đề phòng bị kẻ gian rạch túi, Phạm Lực mua một chiếc túi du lịch mới toanh, vẽ lên vách túi chân dung tự họa mặt mày gớm ghiếc, tóc tai rối bù, cái mũi to tướng đội đôi lông mày rậm, trên vai có một cô gái cầm bông hoa, bên dưới viết dòng chữ “túi của họa sĩ, không có tiền”.

Phạm Lực khấp khởi xách chiếc túi còn thơm mùi sơn dầu đi công tác và rất yên tâm về sáng kiến phòng gian rất chi là tối ưu. Buổi sớm tinh mơ, đường phố vẫn còn ngái ngủ nhưng trên sân ga đã có cả đoàn người rồng rắn xếp hàng mua vé. Những em bé bán báo, những tấm lưng mốc cúi rạp trên chiếc xích lô nặng nhọc, những bộ mặt thiếu ngủ ngồi ngáp bên quán cóc, những nữ tự vệ đường sắt sau giờ thay ca… lần lượt lướt trên mặt giấy. Họa sĩ mải vẽ quên cả giờ tàu. Đành đợi chuyến tàu sau. Trong khi đợi tàu, Phạm Lực tiếp tục quan sát, tiếp tục vẽ say sưa cho tới khi tiếng loa điện vang lên nhắc nhở hành khách chuẩn bị lên tàu, Phạm Lực mới dừng bút, thu dọn đồ nghề thì ôi thôi chiếc túi du lịch thân yêu đã bị xẻo, bức tranh tự họa đã biến mất. Kẻ gian đã xử lý thật điêu nghệ, hắn cắt miếng túi rất vuông vức, to vừa bằng bức tranh.

Kỷ niệm đặc biệt

Những ngày mới nhập ngũ, anh lính trẻ Phạm Lực thường xuyên xung phong đi xin tre về xây dựng doanh trại. Lần nào đi cũng mang theo hộp màu, bút vẽ và cuộn giấy, thỉnh thoảng ngồi nghỉ, ghi bức tranh ký họa làm tư liệu. Một buổi chiều đi vào làng Thắng, thấy chiếc cổng làng rêu mốc, rễ đa buông trùm mái, anh mở giấy bút ngồi vẽ. Đang mải mê vẽ thì thình lình có người hỏi: “Anh là họa sĩ à?”.

Phạm Lực ngước mắt nhìn lên, thấy một lão nông quắc thước chống cuốc đứng sát cạnh, họa sĩ đứng lên lễ phép thưa:

– Cháu là họa sĩ mới nhập ngũ, được đơn vị cử đi xin tre, thấy cổng làng mình đẹp quá nên cháu muốn ghi lại.

– Mời anh vào nhà tôi chơi, tôi sẽ cho anh tre – lão nông nói với Phạm Lực.

Hai người về đến nhà, lão nông mời họa sĩ xơi nước rồi hỏi với giọng thì thầm:

– Anh có vẽ được truyền thần không?

– Dạ cháu vẽ được ạ.

– Nhờ anh vẽ cho tôi một bức.

– Vâng, cháu sẽ vẽ giúp bác.

Lão nông mừng lắm, vội soi gương chải tóc, ngồi ngay ngắn trên chiếc ghế mây cũ để họa sĩ vẽ. Vẽ xong, Phạm Lực đưa cho lão xem, lão rất thích thú. Ngồi uống cạn ấm trà, lão nông lại hỏi họa sĩ với giọng quan trọng hơn trước:

– Giả thử, anh vẽ cho tôi mặc quân phục ngồi cưỡi ngựa có được không?

– Dạ vẽ được ạ.

Lão hồ hởi hỏi tiếp:

– Thế anh vẽ cho tôi nhé. Anh cứ thong thả, vẽ cho đẹp. Hôm nay mát giời, tiện thể nhà có việc, tôi mổ sẵn con cầy mời anh ở lại xơi cơm với gia đình.

Phạm Lực ngờ ngợ, không hiểu có vấn đề gì mà lão nông to cao vạm vỡ, mỗi lần nói lại thì thà thì thầm như sợ có người nghe thấy. Linh cảm có điều gì đó không bình thường nên ngọn bút ngắc ngứ rất lâu.

Trời sẩm tối, lão thắp thêm chiếc đèn dầu cho sáng để họa sĩ vẽ. Bức tranh đang dần xong thì thấy có tiếng người lao xao ngoài cửa, hội dân quân tay cầm đèn pin bước vào nhà cất tiếng dõng dạc:
– Mời đồng chí bộ đội ra sân để chúng tôi làm việc.

Phạm Lực dừng vẽ, đứng dậy theo họ đi. Anh trình bày sự việc. Anh dân quân soi đèn pin, nhìn kỹ tấm thẻ quân nhân của Phạm Lực, rồi hạ giọng nói vừa đủ nghe:

– Lão đây ngày xưa đi lính cho Nhật được cách mạng tha không xử tử, như thế mà hắn không biết ơn Đảng, ơn cách mạng, đã vận động nhiều lần nhưng nhất định không chịu vào hợp tác xã. Làng tôi coi lão là phần tử chậm tiến, có vấn đề về chính trị cần phải cảnh giác. Chúng tôi theo dõi từ khi anh vào nhà lão, mãi không thấy anh ra, không biết anh làm gì ở trong nhà lão nên buộc chúng tôi phải vào kiểm tra. Đề nghị anh phải nêu cao cảnh giác, không được để kẻ có vấn đề về chính trị lợi dụng.

Nghe vậy Phạm Lực sợ quá vội chuồn nhanh ra cổng. Mùi thịt chó quện trong khói bếp bốc lên thơm ngào ngạt.

Làm nhà Bác Hồ ở Tây Nguyên

Cục Tuyên huấn triệu tập một số họa sĩ đang công tác ở chiến trường về Bộ Chỉ huy mặt trận vẽ tranh cổ động tuyên truyền. Mỗi họa sĩ vẽ một đề tài, họa sĩ Phạm Lực vẽ “Bác Hồ với đồng bào Tây Nguyên”. Vẽ xong chuyển cho bộ phận in lưới, in ngay. Họa sĩ tham gia giúp bộ phận in làm việc cho tới khuya. Chuẩn bị đi ngủ thì một già làng người Ba Na kiêm xã đội trưởng nói với Phạm Lực:

– Tôi xem bộ đội vẽ Bác Hồ đẹp lắm, muốn nhờ bộ đội vẽ cho dân làng Ba Na một bức để bà con được thấy Bác Hồ.

Phạm Lực vui vẻ nhận lời, lấy hai chiếc võng khâu lại làm toan căng ra, phóng to bức tranh cổ động “Bác Hồ với đồng bào Tây Nguyên”. Vẽ xong họa sĩ nói với già làng:

– Bộ đội xin tặng đồng bào bức tranh này để đồng bào coi và tự hào có Bác Hồ sống mãi với đồng bào Tây Nguyên.

Già làng mừng lắm, liền lệnh cho dân quân đóng khung treo bức tranh ở đầu làng. Phạm Lực tham gia cùng dân làng treo bức tranh, công việc xong xuôi mới đi ngủ. Sáng dậy ra suối rửa mặt để ngắm lại bức tranh thì thật lạ lùng, bức tranh đã biến mất.

Phạm Lực ngơ ngác nhìn quanh, bỗng già làng xuất hiện, siết chặt tay Phạm Lực và nói:

– Đêm qua treo tranh xong, dân làng đốt đuốc đến xem rất đông, có người khóc vì lần đầu tiên trong đời họ được nhìn thấy Bác Hồ. Mọi người xúm quanh bức tranh, không ai chịu về rồi cả làng bàn bạc quyết định phải làm nhà để bảo vệ Bác. Thế là chúng tôi đã làm nhà để Bác ở, mời họa sĩ đến thăm nhà Bác.

Già làng kéo Phạm Lực đến nơi họ vừa dựng nhà Bác lúc nửa đêm. Đứng trước bức tranh Hồ Chủ tịch trong căn nhà do đồng bào vừa dựng, xung quanh những bao tải xếp cao tới ngực, Phạm Lực vô cùng cảm động.

Bê đổi màu

Họa sĩ Phạm Lực dẫn một đoàn học viên lớp học vẽ quân đội lên Hòa Bình thực tập. Lớp có ba mươi người, chia nhau ba người một tổ, ở nhờ một gia đình. Riêng Phạm Lực ở nhà gia đình anh Dực người Mường. Anh Dực hơn Phạm Lực năm tuổi, đã có bốn đứa con lít nha lít nhít, nhưng đứa nào vào việc nấy rất ngoan. Cô con gái lớn theo bố mẹ đi làm ruộng, cô thứ hai ẵm em, cậu bé sáu tuổi được bố giao nhiệm vụ chăn đôi bò mẹ con. Nó còi cọc, cao bằng khấu đuôi con bò, rất hay nghịch vắt sữa bò, có hôm bị nó dẫm sưng cả chân. Phạm Lực rất thương thằng bé, anh thường chăn bò thay nó, vừa giúp đỡ gia đình neo đơn, vừa làm gương cho học viên về công tác dân vận. Hàng ngày đưa học viên ra đồi tập vẽ, anh lại dắt theo đôi bò mẹ con đi chăn. Anh Dực cảm động lắm.

Buổi học thực hành vẽ phối cảnh, Phạm Lực lấy đôi bò mẹ con làm đề tài để học viên vẽ. Trước thiên nhiên rộng lớn, các học viên rất lúng túng khi vẽ theo luật xa gần, vẽ đi vẽ lại nhiều lần vẫn không đạt yêu cầu, vì con bò mẹ lông vàng sẫm, con bê lông vàng tơ óng ả, vẽ đúng màu lông thì con bê to gần bằng mẹ. Để giúp học viên dễ thực hành, Phạm Lực bảo các học viên lấy màu đen bôi kín lên lông con bê, cặp bò mẹ con có hai màu tương phản vàng, đen rất dễ vẽ, học viên hoàn thành bài tập rất nhanh.

Chiều tắt nắng, ở rừng núi bóng tối ập xuống rất nhanh, Phạm Lực thản nhiên dắt bò về chuồng, kết thúc một ngày hướng dẫn thực hành xuôn xẻ. Cơm tối xong, ngồi uống nước, nói chuyện tào lao với anh Dực hồi lâu rồi mới đi ngủ. Anh Dực đem thêm cỏ cho bò ăn, hốt hoảng kêu toáng lên:

– Chú Lực ơi! bê nhà mình lạc rồi, phải đi tìm thôi.

Phạm Lực trả lời:

– Bê vẫn ở trong chuồng đấy thôi, không lạc đâu.

– Tôi nuôi nó tôi biết chứ. Con bê nhà mình là bê vàng cơ mà, đây là con bê màu đen của nhà ai đấy. Họ mất bê mà lại thấy nó ở nhà mình thì rày rà to.

– Đêm tối mù tối mịt thế này, tìm làm sao được.

Anh Dực la lên: Mất con bê là mất món tiền to đấy, phải đi tìm nó thôi.

Phạm Lực nói tiếp: Đợi trời sáng nhìn rõ đường, tôi sẽ tìm thấy nó.

Anh Dực lặng im vẻ mặt buồn thiu. Loanh quanh đi ra đi vào, rồi anh ngồi giữa nhà bên ngọn đèn dầu, lặng lẽ rít thuốc lào liên tục. Thấy anh mãi không đi ngủ, Phạm Lực an ủi:

– Anh đi ngủ kẻo mệt, sớm mai tôi sẽ đi tìm con bê, không mất đâu mà sợ. Tôi dắt mẹ con nó đi chăn mấy tuần nay, cả làng cả bản ai cũng biết, không ai dám lấy trộm bê của bộ đội đâu. Nếu không tìm thấy, tôi sẽ mua con khác to hơn đền anh.

Được Phạm Lực an ủi, anh Dực tắt đèn đi ngủ. Đến canh khuya, đợi anh Dực đã ngủ say, Phạm Lực khẽ khàng ra giếng múc nước rửa sạch màu đen trên bộ lông của con bê rồi lại khẽ khàng trở vào giường ngủ tiếp. Tang tảng sáng, Phạm Lực vẫn nằm trên giường đã thấy anh Dực ời ời:

– Chú Lực ơi, bê nhà mình nó về đây rồi. Lạ quá nhỉ, con bê như có phép màu.

Trần Sĩ(Theo banduong.vn)

Your email address will not be published. Required fields are marked *